05/05/2015 08:55
Tháng 8/1914, khi đang ở Anh, trong bức thư gửi cụ Phan Chu Trinh, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã viết: "...Tiếng súng đang rền vang. Thây người đang phủ đất. Năm nước lớn đang đánh nhau. Chín nước đã vào vòng chiến. Cháu bỗng nhớ cách đây vài tháng cháu đã nói với bác về cơn dông sấm động này...". Như vậy trong một bức thư gửi trước đó, Bác đã tiên đoán Chiến tranh thế giới lần thứ 1 (1914-1918) sắp sửa nổ ra.
Năm 1924, trong bài "Đông Dương và Thái Bình Dương", Bác đã dự báo về nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh thế giới mới và tiên đoán: "Thế nào rồi cũng có ngày nước Nga cách mạng phải đọ sức với chủ nghĩa tư bản". Với tầm nhìn chiến lược, Bác còn thấy trước Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh nó sẽ trở thành miếng mồi béo bở cho các tên đế quốc nhòm ngó, khu vực này "tương lai có thể trở thành một lò lửa của cuộc chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh". Những tiên đoán này, 15 năm sau trở thành hiện thực. Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát-xít Đức tấn công Liên Xô, các nước xung quanh Thái Bình Dương trở thành chiến trường ác liệt.
Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung ương ở Pác Bó, Bác đã dự liệu thời cơ tổng khởi nghĩa là lúc Liên Xô thắng Đức; Mỹ, Anh, Trung Quốc phản công đánh bại Nhật Bản. Cần thấy rằng, dự báo này đưa ra lúc Đức chưa tấn công Liên Xô, Nhật chưa tấn công vùng đất do Mỹ, Anh kiểm soát. Nhờ phán đoán tài tình như vậy nên Bác đã yêu cầu Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng đình chỉ chủ trương khởi nghĩa đầu năm 1944, đồng thời phát động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị để đón thời cơ.
Ngày 1/1/1942, trên báo "Việt Nam độc lập" số 114, Trả lời câu hỏi: Năm nay tình hình thế giới và trong nước sẽ thế nào? Trong bài "Năm mới, công việc mới" Bác khẳng định: "Ta có thể quyết đoán rằng, Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại; Anh, Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua. Đó là một dịp rất tốt cho dân ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp, Nhật, làm cho Tổ quốc ta độc lập tự do". Trên thực tế chúng ta đã tiến hành Tổng khởi nghĩa vào đúng thời cơ mà Bác đã dự đoán, giành thắng lợi trong thời gian ngắn.
Tháng 2/1942 , Bác biên soạn cuốn "Lịch sử nước ta" theo hình thức diễn ca. Cuối tác phẩm có mục "Những năm tháng quan trọng" ghi những sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc, sự kiện cuối cùng, Bác viết: "1945 - Việt Nam độc lập". Khi đưa đi in, một số đồng chí băn khoăn hỏi lại thì được Bác khẳng định: "Được rồi, cứ thế in".
Trong khi các nguyên thủ của phe Đồng minh họp tại Tehran (năm 1943), dự tính rằng, phải đến năm 1946 mới có thể hoàn toàn đánh bại lực lượng phát-xít, kết thúc chiến tranh, thì lịch sử lại diễn ra đúng như tiên đoán của Người. Tháng 5/1945, phát-xít Đức đầu hàng, Liên Xô đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật đầu hàng vô điều kiện. Chớp thời cơ đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta nổi dậy tổng khởi nghĩa giành độc lập, tự do.
Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhưng ngay lúc đó, Bác đã chỉ rõ thắng lợi này mới chỉ là bước đầu và cảnh báo rằng, đế quốc Mỹ sẽ nhảy vào thay thế Pháp ở Đông Dương, Người nhận định: "Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam, Lào". Trên cơ sở đó chúng ta đã chủ động về chiến lược, tích cực chuẩn bị lực lượng để sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Năm 1960, trong Diễn văn lễ mừng Quốc khánh 2/9/1960, có đoạn viết: "Trong lúc chúc mừng ngày Quốc khánh vĩ đại lần thứ 15, chúng ta càng nhớ đến đồng bào ta ở miền Nam đang anh dũng đấu tranh chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm. Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc - Nam nhất định sẽ sum họp một nhà". Bác gạch dưới trong bản thảo các chữ "chậm lắm là 15 năm nữa". Đúng 15 năm sau, mùa xuân 1975, với thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước ta đi đến thống nhất như tiên đoán diệu kỳ của Người.
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Bác đã tiên liệu: "Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua". Từ kinh nghiệm ở Triều Tiên, trước khi thua, Mỹ đã ném bom hủy diệt Bình Nhưỡng, Bác đã dự báo: "Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội". Thực tế, tháng 12/1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược bằng không quân vào Hà Nội và Hải Phòng. Chỉ sau khi thất bại nặng nề trong trận "Điện Biên Phủ trên không", ý chí xâm lược bị đập tan, Mỹ mới chịu ký kết Hiệp định Paris, thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và rút hết quân về nước.
(Theo Nhân dân)