04/10/2023 06:22
|
Đăk Na đón chúng tôi bằng cơn mưa mịt mù trời đất. Trên con đường bê tông phẳng phiu dẫn vào làng Lê Văng, những nếp nhà sàn ẩn hiện bên cách đồng bậc thang, khói bếp bốc lên, gặp mưa cứ quanh quẩn trên mái nhà.
Nhà ông A Han nằm lưng chừng dốc, quanh nhà trồng nhiều nứa và săm lũ (một loại cây cùng họ với lồ ô và nứa). Trong căn nhà sàn rộng chừng 30m2, gồm 2 lối ra vào, già A Han ngồi đón ánh sáng nơi cửa bếp vót nan.
Tuổi cao, những hoạt động với ông A Han trở nên khó khăn. Đôi tay không còn linh hoạt, mắt không còn sáng như trước, nhưng hễ sờ vào sợi nan, mọi thao tác bỗng nhanh nhẹn, hoạt bát, thành thục. Đôi bàn tay chai sạn, nhưng khi sờ qua sợi nan ông vẫn có thể cảm nhận được độ mỏng, dày, có đạt để đan gùi, đan nia được hay chưa.
Để có cảm nhận tinh tế ấy, ông A Han đã gắn bó gần cả đời với sợi nan, cây tre, cây nứa, đồng thời luôn học hỏi, tìm tòi, sáng tạo ra những điểm nhấn như họa tiết, hoa văn, sắc màu trên những chiếc gùi. Để rồi, chính những điểm nhấn ấy đã gây thu hút ánh nhìn, gieo ấn tượng đẹp cho những người mê gùi, mê sản phẩm truyền thống.
Trong cuộc đời, ông A Han không thể nhớ mình đan được bao nhiêu chiếc gùi, bởi ông biết đan gùi từ khi còn là một cậu bé. Theo ông, ngày xưa trong làng, đàn ông ai cũng biết đan lát. Ngoài giỏi việc rẫy, băng rừng, lội suối, đàn ông còn làm ra những chiếc gùi, chiếc nia, đơm cá phục vụ đời sống sinh hoạt. Và những người con, người cháu học hỏi đan lát từ lớp người đi trước và làm theo.
Ông A Han nhớ lại: Trước kia, mỗi lần cha tôi trở về từ rẫy, ngoài rau rừng, cá suối, ông còn mang theo bó lồ ô, săm lũ về nhà. Ông lựa chọn những cây già, có vẻ bề ngoài sần sùi, màu xanh nhợt nhạt. Bởi những cây này qua thời gian sinh trưởng, chịu nắng, chịu mưa nên có độ cứng, dẻo dai, chống được mối mọt.
Cha tôi không cầm tay chỉ việc, không hướng dẫn tường tận cách đan lát, nhưng do đam mê nên tôi dễ dàng học theo. Sáng sớm, khi mẹ tôi đang loay hoay bên bếp lửa, lo chuẩn bị đồ ăn cho một ngày dài, thì cha đã miệt mài cùng con dao nhỏ sắc lẹm, vót những sợi nan, sợi lạt để tối về đan. Những lúc này, tôi cũng đã thức giấc, thường phụ cha chẻ những ống lồ ô, săm lũ mà cha mang về từ ngày trước. Tối đến, sau bữa cơm, cả nhà quây quần bên bếp lửa giữa nhà, mẹ và bà cọc cạch bên khung cửi, còn tôi cùng cha đan lát.
Là một người có tính cầu toàn, cẩn thận, nên những chiếc gùi, chiếc nia do cha tôi làm ra đều đặn như đúc ra từ một chiếc khuôn. Nhiều người trong làng ngày ấy khi làm gùi đều làm phần đế, miệng gùi bằng dây mây nhưng cha thì khác. Cha tôi chọn loại cây “long nông” – loại gỗ có tính nhẹ, dẻo, bền, dễ dàng tạo hình đẹp thay cho dây mây”- ông A Han thủ thỉ.
Trong đan lát, khi phần đế và miệng gùi được hoàn thiện, cha ông mới làm khung gùi, sau đó đến khâu đan lát. Công đoạn làm nan và đan lát rất quan trọng, quyết định đến độ bền, tính thẩm mỹ của một chiếc gùi. Gùi của người Xơ Đăng gồm 2 loại, nan thưa và nan khít.
Loại gùi nan thưa thường làm đơn giản, không tốn nhiều thời gian và đẹp như gùi như nan khít. Bởi trông qua vẻ bề ngoài của một chiếc gùi nan khít, nhìn các họa tiết được tạo ra từ những sợ nan cùng màu là có thể đánh giá được kỹ năng, sự tỉ mỉ, chỉnh chu của người thợ.
Và ông A Han may mắn nắm được những kỹ năng từ cha mình ngay từ khi còn tuổi niên thiếu. Xem cha làm, ông A Han học và làm theo. Nhớ lại chiếc gùi đầu tiên do mình làm tuy không đẹp, nhưng là động lực để ông nỗ lực tạo ra được những chiếc gùi đẹp như cha mình sau này.
|
Khi trở thành thanh niên, lập gia đình, A Han trở thành nghệ nhân đan lát của làng. Nhiều người ngợi khen ông đan đẹp, đan giỏi hơn cha ông. Bởi những chiếc gùi ông làm ra có những chi tiết đẹp và sắc sảo hơn cha ông. Chiếc gùi A Han làm có nắp đậy kín, bà con có thể đựng gạo, lúa đi giữa trời mưa nắng. Hơn nữa, những chiếc gùi ông làm ra, có những chi tiết được phủ màu từ một loại sơn “đặc biệt”.
|
Ông A Han chia sẻ: Để có được điểm nhấn cho chiếc gùi, tôi học cách tạo màu sơn đen ở phần miệng gùi. Để có loại sơn “đặc biệt” này, tôi hơ những phần muốn sơn đen trước lửa củi xà nu, sau đó dùng một loại lá mọc nhiều trên rẫy buộc ở phần gậy quét đều. Nhựa của chúng tiết ra, gặp khói xà nu tạo ra màu đen, sau đó mang phơi trên giàn bếp nhiều ngày.
Nhờ cách làm này, mà nhiều bà con ưa thích chiếc gùi do ông A Han làm ra. Họ dùng gạo, heo, gà để đổi lấy những chiếc gùi mang về dùng. Đến tận bây giờ, khi làm gùi, ông A Han vẫn làm theo cha mình là chọn loại sơn “đặc biệt” này để tạo màu.
Ở làng Lê Văng, ngày trước, cũng như cây lồ ô, săm lũ, cây “long nông” mọc nhiều trong làng, trong rừng, người dân không phải tốn nhiều công sức để lựa chọn được những cây ưng ý. Còn giờ đây, để lấy được một đoạn cây “long nông” buộc người dân phải vào rừng sâu mới có.
Tuổi cao, sức yếu, bước chân không còn mạnh mẽ như thời thanh niên, ông A Han đành nhờ những người con tìm giúp ông những đoạn gỗ “long nông” để ông làm gùi. Còn lồ ô, săm lũ được ông trồng quanh nhà để thuận tiện lấy, hơn nữa còn giúp làm hàng rào, che mát khuôn viên nhà. Nhờ có nguồn nguyên liệu đảm bảo, giúp ông miệt mài với nghề đan. Sản phẩm làm ra, phần ông để làm của hồi môn cho con cháu, phần để phục vụ sinh hoạt gia đình và hơn hết là trao đổi, bán lấy tiền trang trải cuộc sống.
Ông A Han cho biết: Về già, rẫy vườn đã bàn giao cho con cái. Ở nhà không làm gì cũng buồn, may có nghề đan lát mà tay chân có việc để làm, có thêm thu nhập. Một chiếc gùi nhỏ đan từ 2 – 3 hôm bán từ 400 – 600 nghìn đồng/cái. Chiếc gùi to thì dày công hơn, một chiếc làm mất khoảng 1 tuần, có giá bán từ 1 – 2 triệu đồng/chiếc. Ngoài gùi, ông A Han còn đan thêm các sản phẩm như nia, giỏ theo yêu cầu của khách hàng.
Ông A Dũng - Phó Chủ tịch UBND xã Đăk Na cho biết: Ông A Han là một trong những người còn duy trì nghề đan lát trên địa bàn xã. Nhiều người trong xã ưa chuộng và đánh giá cao những sản phẩm đan lát do ông A Han làm ra. Trong thời gian tới, xã vận động thế hệ trẻ tham gia học và phát triển nghề đan lát truyền thống, tạo ra nhiều sản phẩm để phục vụ cho việc phát triển du lịch cộng đồng ở địa phương.
Văn Tùng