Phát huy hiệu quả công trình cấp nước ở nông thôn

25/01/2019 06:16

Thực hiện chiến lược quốc gia về nước sạch, việc đầu tư xây dựng, quản lý và khai thác công trình cấp nước tập trung ở nông thôn phải bảo đảm hợp vệ sinh, an toàn cho người sử dụng và tính đến các yếu tố bền vững cho công trình.

Nhận diện công trình điểm

A Rế, thôn 5, xã Đăk La (Đăk Hà) cầm ca lấy nước trực tiếp từ hệ thống cấp nước tập trung của Trạm cấp nước sinh hoạt Đăk La đưa lên uống và khoe: Nước trong veo, mát rượi và đảm bảo an toàn. Từ nhiều năm nay, gia đình tôi cũng như bà con ở đây uống nước này, chưa thấy ai bị bệnh đường ruột do nước.

“Trước đây khi Nhà nước chưa đầu tư xây dựng công trình cấp nước, gia đình phải đi xách nước giếng về dùng. Khi công trình được đầu tư xây dựng, ban đầu người dân băn khoăn sợ dùng nước phải trả chi phí lớn, ảnh hưởng đến cuộc sống. Tuy nhiên, do được tỉnh trợ giá nên chi phí sử dụng nước không đáng kể. Hàng tháng, gia đình tôi dùng khoảng 6-7m3 nước và thanh toán khoảng 18.000-20.000 đồng”-A Rế tâm sự.

Đến một gia đình khác cũng ở thôn 5, xã Đăk La, tôi mượn ca lấy nước từ vòi uống thử. Quả thật, nguồn nước mát và không có mùi. A Đấu, chủ nhà quả quyết: Nước do Trạm cung cấp, sạch và bảo đảm an toàn. Mấy năm nay, cả làng, cả xã đều uống nguồn nước này, không dùng nước giọt, nước giếng nữa. Gia đình tôi đăng ký sử dụng lâu dài, bình quân hàng tháng dùng khoảng 10m3 nước và chi trả 30.000 đồng, dùng nước sạch từ hệ thống cấp nước của trạm tiện lợi.

Theo anh Nguyễn Thanh Đức - Trạm trưởng Trạm cấp nước sinh hoạt xã Đăk La, kể từ khi xây dựng nhà máy cấp nước đến nay, Trạm luôn bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho người dân. Nhà máy cấp nước có công suất 1.440m3 nước/ngày đêm và hiện nay đang cấp nước cho 1.300 hộ của 10/11 thôn của xã Đăk La; bốn doanh nghiệp, các trường học, Trạm Y tế và UBND xã Đăk La cũng đều sử dụng nguồn nước này. 

“Hệ thống cấp nước của nhà máy lấy nước từ mạch nước ngầm ở độ sâu gần 100 mét. Nước qua hệ thống lọc và xử lý nên chất lượng nước đạt tiêu chuẩn của Bộ Y tế, bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Kể từ khi nhà máy cung cấp nước và người dân sử dụng nguồn nước sạch này, các bệnh về đường ruột của người dân giảm hẳn” - anh Đức bộc bạch.

Ở công trình cấp nước sạch Cụm xã Đăk Hring (Đăk Hà)- Diên Bình (Đăk Tô) có công suất 1.600m3 nước/ngày đêm đang cấp nước cho trên 1.700 hộ dân cũng đang phát huy hiệu quả. Công trình này do Trạm cấp nước sinh hoạt Cụm xã Đăk Hring - Diên Bình quản lý, vận hành và khai thác sử dụng.

Chúng tôi đến thăm một số nhà dân đang sử dụng nước từ công trình cấp nước sinh hoạt cụm xã này, người dân đánh giá cao chất lượng nguồn nước.

Hệ thống cấp nước tập trung Đăk La. Ảnh: V.N

 

Mở rô- mi- nê để cho chúng tôi nhìn thấy nước chảy ra trong vắt, A Hồng, thôn 5, xã Diên Bình (Đăk Tô) cho biết: Gia đình tôi cũng như nhiều người dân lâu nay sử dụng nước máy do Trạm cấp nước sinh hoạt Cụm xã Đăk Hring - Diên Bình cung cấp, không còn phải vất vả đi lấy nước, xin nước như trước. Nguồn nước ở đây luôn bảo đảm an toàn. Sử dụng nước, hàng tháng gia đình chi trả tiền nước khoảng 40-45 nghìn đồng.

Theo ông Đặng Trần Huân- Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh, hiện nay, Trung tâm đang quản lý vận hành công trình cấp nước sinh hoạt Đăk La và cấp nước sinh hoạt cụm xã Đăk Hring - Diên Bình. Cả hai công trình cấp nước sinh hoạt được khai thác hiệu quả, bảo đảm các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn và có thu tiền sử dụng nước để tái đầu tư cho công tác quản lý, vận hành công trình. 

Góc nhìn trong công tác quản lý

Từ hiệu quả của việc khai thác, quản lý vận hành và thực hiện chiến lược quốc gia về nước sạch, ông Đặng Trần Huân khẳng định, chương trình nước sạch nông thôn ở tỉnh đang hướng đến việc cấp nước sạch, an toàn và bền vững cho người dân nông thôn. Bằng các nguồn vốn đầu tư từ các chương trình, dự án và sự quan tâm của Nhà nước, trong những năm qua, tỉnh ta đầu tư nhiều công trình cấp nước tập trung cho người dân nông thôn. Các công trình cấp nước tập trung phần lớn đều đến tận nhà và bảo đảm an toàn cho người sử dụng. 

Tuy nhiên, công tác quản lý, vận hành ở một số công trình của cấp xã, thôn chưa được như mong muốn và thiếu tính bền vững, chủ yếu là do: đời sống của người dân còn nghèo, khả năng chi trả phí sử dụng nước hạn chế; ý thức bảo vệ công trình cấp nước của một số hộ dân chưa cao, nguồn kinh phí hỗ trợ cho công tác duy tu, bảo dưỡng công trình chưa đáp ứng so với yêu cầu; một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý, vận hành và bảo dưỡng công trình; nhiều cán bộ quản lý, vận hành công trình chưa qua các lớp đào tạo, tập huấn...

Trước yêu cầu đặt ra và để quản lý, vận hành tốt công trình, Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh đề nghị chính quyền địa phương khi đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác công trình cấp nước tập trung ở các thôn, làng phải hướng dẫn và giúp người dân thành lập tổ tự quản sử dụng nước. Để có nguồn kinh phí giúp cho tổ hoạt động, người dân sử dụng nước phải trả tiền sử dụng nước. Mức đóng góp bao nhiêu là người dân tự bàn bạc, quyết định, nhưng không vượt quá quy định của Nhà nước. Ông Huân nêu lên những kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản lý, vận hành và khai thác sử dụng tốt các công trình nước sạch nông thôn, phục vụ nhu cầu đời sống, bảo đảm sức khỏe nhân dân khu vực nông thôn. 

Thực tế cho thấy, đối với các công trình cấp nước tập trung, ở nơi nào người dân thành lập tổ tự quản sử dụng nước và trả tiền sử dụng nước thì công trình sử dụng hiệu quả và ngược lại. Việc trả tiền sử dụng nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của người sử dụng nước để công tác quản lý, khai thác công trình một cách bền vững. Nếu công trình đưa vào sử dụng không thành lập tổ tự quản thì công trình dễ rơi vào tình trạng “cha chung không ai khóc”, dễ hư hỏng và mau xuống cấp.

Để phát huy hiệu quả công trình, việc thực hiện Chương trình mở rộng quy mô vệ sinh và nước sạch nông thôn ở tỉnh hiện nay, khi đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng phải hướng đến công tác quản lý và khai thác bền vững, góp phần thực hiện tốt mục tiêu xây dựng nông thôn mới ở địa phương.           

VĂN NHIÊN

Chuyên mục khác