Hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ cho dân tộc Brâu và Rơ Măm

11/10/2019 13:10

Tỉnh Kon Tum có 2/5 DTTS rất ít người trong cả nước, đó là dân tộc Brâu và dân tộc Rơ Măm. Dân tộc Rơ Măm hiện đang sinh sống tại làng Le (xã Mô Rai, huyện Sa Thầy) với 128 hộ dân gồm 470 khẩu; dân tộc Brâu sinh sống tại thôn Đăk Mế (xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi) với 161 hộ dân gồm 513 khẩu. Thời gian qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Brâu và dân tộc Rơ Măm từng bước được nâng lên…

Triển khai Dự án hỗ trợ, phát triển dân tộc Brâu và dân tộc Rơ Măm giai đoạn 2005-2010 (gọi tắt là Dự án), chính quyền và ngành chức năng tiến hành hướng dẫn giúp đỡ 2 dân tộc này cách thức sản xuất để tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Nhờ đó, đồng bào dân tộc Brâu và Rơ Măm đã biết làm ruộng nước 2 vụ; trồng các loại cây công nghiệp như cao su, bời lời, cà phê; chăn nuôi gia súc; biết ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên năng suất các loại cây trồng, vật nuôi được nâng lên đáng kể so với trước, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

Đáng chú ý, Dự án đã triển khai xây dựng 5,2 km đường nhựa nội vùng; xây dựng mới và sửa chữa 5,3 km đường giao thông vào khu sản xuất; xây dựng 3 công trình trường học, 2 nhà rông văn hóa, 2 nhà ở truyền thống theo đúng nguyên mẫu nhà ở của dân tộc Brâu.

Mặt khác, Dự án đã hỗ trợ khai hoang, mở rộng diện tích đất sản xuất cho dân với tổng diện tích là 378 ha (đồng bào Rơ Măm 132 ha, dân tộc Brâu 246 ha, tăng 171 ha diện tích đất canh tác nông nghiệp so với trước); thực hiện giao khoán quản lý, khoanh nuôi, bảo vệ rừng trên 2.000 ha, bình quân 28 ha/hộ. Dự án cũng đã đưa vào tổ chức các mô hình trình diễn, hỗ trợ các loại cây, con giống, phân bón, thuốc trừ sâu; hỗ trợ các dụng cụ sản xuất như máy cày tay, máy tuốt lúa có động cơ, bình bơm thuốc trừ sâu, máy xay xát gạo... phục vụ sản xuất và đời sống cho bà con.

Đồng bào Rơ Măm ở làng Le (xã Mô Rai, huyện Sa Thầy) đánh cồng chiêng, múa xoang trong lễ hội mừng lúa mới. Ảnh: Mai Văn Nhưng 

 

Bên cạnh đó, các dân tộc Brâu và Rơ Măm được hỗ trợ xây dựng kiên cố 184 căn nhà (khung gỗ, vách ván hoặc nhà xây cấp 4, mái lợp tôn); xây dựng 134 giếng nước sinh hoạt; hỗ trợ mắc điện cho 129 hộ; hỗ trợ kinh phí cho 99 hộ dân tộc Brâu làm nhà vệ sinh với mức hỗ trợ 2 triệu đồng/hộ; xây dựng 3,5 km hệ thống điện khu dân cư cho dân tộc Brâu. Hiện nay, hầu hết các hộ đã ổn định định canh định cư, nhà ở kiên cố, khang trang (trừ những hộ mới phát sinh do mới tách hộ); 100% số hộ đã có điện thắp sáng và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.

Ngoài ra, Dự án còn hỗ trợ kinh phí hằng tháng cho học sinh các cấp học của dân tộc Brâu và Rơ Măm. Đối với dân tộc Brâu, đã mở 2 lớp xóa mù chữ cho 93 người ở độ tuổi từ 28-52 biết đọc và viết thành thạo; hỗ trợ mở lớp đào tạo nghề dệt thổ cẩm truyền thống cho 22 học viên.

Ngoài kinh phí hỗ trợ của Dự án, ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh quan tâm huy động học sinh ra lớp, duy trì sĩ số, ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, có chính sách hỗ trợ cho học sinh các cấp như hỗ học sinh mầm non, học sinh tiểu học tại điểm lẻ 70.000 đồng/học sinh/tháng, học ở trường trung tâm có bán trú 420.000 đồng/học sinh/tháng.

Cùng với các nội dung hỗ trợ nêu trên, từ nguồn kinh phí của Dự án, tiến hành lựa chọn, cử 2 cán bộ y tế thôn đi đào tạo chuyên môn, sau đó về địa phương làm việc, góp phần chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người dân tốt hơn, nhờ vậy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm đáng kể.

Dự án cũng đã hỗ trợ 2 bộ chảo thu DTH, ti vi 29 inch, âm li, loa, micrô; hỗ trợ mua sắm 35 bộ trang phục truyền thống, 13 bộ cồng chiêng, đồng thời triển khai phục dựng một số lễ hội truyền thống của dân tộc Brâu và dân tộc Rơ Măm.

Phục dựng nghi lễ cúng mừng lúa mới của người Brâu ở làng Đăk Mế, xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi. Ảnh: QĐ 

 

Ngoài các nội dung được đầu tư, hỗ trợ từ 2 dự án của Nhà nước đối với đồng bào dân tộc Brâu và Rơ Măm, 2 dân tộc này còn được đầu tư, hỗ trợ từ các chương trình, chính sách dân tộc khác như: chính sách định canh định cư theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, Quyết định số 755/2013/QĐ-TTg, Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg (nay được tích hợp chung vào Quyết định 2085/QĐ-TTg); chương trình 135; chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo theo Quyết định số102/2009/QĐ-TTg, Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg và Quyết định số 56/2013/QĐ-TTg (nay là Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) và các chương trình, chính sách như hỗ trợ các loại giống cây trồng, vật nuôi, máy móc, công cụ phục vụ sản xuất...

Ông Ka Ba Thành - Trưởng Ban Dân tộc tỉnh cho biết: Trong giai đoạn 2016-2025, Chính phủ có Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 31/10/2016 về Đề án hỗ trợ, phát triển kinh tế-xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người; theo đó UBND tỉnh Kon Tum phê duyệt Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế -xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người Brâu, Rơ Măm đến năm 2025 với mục tiêu: duy trì, phát triển và nâng cao vị thế của dân tộc Brâu, Rơ Măm; giảm nghèo, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào Brâu, Rơ Măm một cách bền vững nhằm giảm dần sự chênh lệch về khoảng cách phát triển với các dân tộc khác trong vùng; xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu tại thôn Đăk Mế, Làng Le - nơi sinh sống tập trung của đồng bào dân tộc Brâu, Rơ Măm; góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuốt lúa chuẩn bị cho lễ cúng lúa mới. Ảnh: QĐ 

 

Tổng nhu cầu kinh phí để thực hiện 2 Đề án là 156.666 triệu đồng. Trong đó, kinh phí thực hiện Đề án hỗ trợ phát triển cho dân tộc Brâu là 68.375 triệu đồng (ngân sách Trung ương hỗ trợ 65.702 triệu đồng và nguồn lồng ghép các chính sách khác 2.673 triệu đồng); kinh phí thực hiện Đề án hỗ trợ phát triển cho dân tộc Rơ Măm là 88.291 triệu đồng (ngân sách Trung ương hỗ trợ 86.078 triệu đồng và nguồn vốn lồng ghép các chính sách khác 2.213 triệu đồng). Hai Đề án này được UBND tỉnh giao Ban Dân tộc tỉnh chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương có liên quan triển khai thực hiện từ năm 2016 đến nay.

Theo ông Ka Ba Thành, việc thực hiện có hiệu quả các đề án, dự án, chương trình, chính sách của Nhà nước đối với 2 dân tộc Brâu, Rơ Măm trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn vùng đặc biệt khó khăn. Trong đó, sự đổi thay đáng kể là cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, đường giao thông nông thôn, trường học, khu sinh hoạt văn hóa-thể thao, nhà ở của người dân được xây dựng kiên cố, khang trang; tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua từng năm; có 100% hộ sử dụng điện, nước sinh hoạt hợp vệ sinh; trẻ em ở độ tuổi đến trường được huy động đến lớp đạt tỷ lệ khá cao (trên 98%); đời sống văn hoá tinh thần ngày càng phát triển. Người Brâu và người Rơ Măm từng bước từ bỏ những hủ tục, chỉ lưu giữ, bảo tồn và phát triển những tục lệ, nét văn hoá đặc sắc, độc đáo của dân tộc… Từ đó, tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thay đổi tập quán sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng-an ninh ở địa phương.

Thảo Nguyên

Chuyên mục khác